Ông Rex Tillerson, tân Bộ trưởng Ngoại giao của chính quyền Tổng thống Trumnp, đã đưa ra một vài nhận xét đáng ngạc nhiên về Trung Quốc và Biển Đông, trong phiên điều trần tại Thượng viện Mỹ gần đây.
Ông Rex nói rằng Mỹ nên “gửi tới Trung Quốc một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, hoạt động xây dựng đảo phải chấm dứt, thứ hai, các ông sẽ không được phép tiếp cận các hòn đảo này.”
Những lời bình luận của ông Rex đã gây ra một cuộc tranh cãi sôi nổi trong giới truyền thông quốc tế bởi vì có vẻ như Mỹ có thể sử dụng vũ lực để phong tỏa các hòn đảo do Trung Quốc chiếm đóng ở Biển Đông.
Ông James Mattis, người được ông Trump lựa chọn làm Bộ trưởng Quốc phòng, đã thận trọng hơn trong phát biểu của mình trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ. Ông James cho rằng việc bảo vệ cái gọi là “vùng biển quốc tế” là “then chốt” đối với Mỹ, và đề xuất rằng Mỹ sẽ bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông, mà không thách thức sự hiện diện của Trung Quốc ở đó.
Ý kiến của ông Mattis là phù hợp với chính sách của Mỹ đối với Biển Đông, trong khi nhận xét của ông Tillerson thì không như vậy. Nhưng tại sao Biển Đông lại quan trọng đối với Mỹ như vậy?
Trung Quốc thường xuyên khiển trách Mỹ “can thiệp” trong khu vực, và không hiểu được tại sao Mỹ lại có lập trường như vậy. Theo quan điểm của Trung Quốc, nước Mỹ đang gây rắc rối cho Trung Quốc, và ngăn cản sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc. Trung Quốc muốn thấy người Mỹ từ bỏ Biển Đông và rút khỏi khu vực tây Thái Bình Dương.
Một số nhà bình luận ở Mỹ và các nơi khác [cũng] đồng ý với quan điểm như trên. Họ lập luận rằng điều đó sẽ cho phép Mỹ tạo được một sự thỏa hiệp với Trung Quốc, qua đó loại bỏ nguy cơ xung đột giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới, và sẽ mang lại hòa bình và ổn định [trong khu vực].
Các nhà bình luận khác đã yêu cầu cần có một hiệp ước G-2 hay hiệp ước Mỹ-Trung, qua đó có thể giải quyết các vấn đề toàn cầu. Họ cho rằng Mỹ đã bị ‘quá căng’ và nên trở lại với quan điểm “không can thiệp” mà Mỹ đã có trước khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950. Tại sao Biển Đông lại lâm vào tình thế có thể thỏa hiệp này?
Sự hiện diện trong khu vực của Trung Quốc
Biển Đông đã trở nên quan trọng đối với Mỹ vì thách thức của Trung Quốc đối với trật tự tự do dựa trên luật pháp quốc tế mà Mỹ đã thúc đẩy kể từ thời chiến tranh Thái Bình Dương. Trật tự khu vực sau chiến tranh dựa trên sự hiện diện của Mỹ, trong đó đã tạo ra một giai đoạn tăng trưởng kinh tế ấn tượng và thịnh vượng trong khu vực, mà không có sự đe dọa về chiến tranh hay xung đột nào.
Nó (trật tự này) đã đảm bảo rằng các tranh chấp hàng hải và yêu sách lãnh thổ sẽ được giải quyết thông qua thương lượng, mà không phải nhờ sức mạnh quân sự. Và nó đã thể hiện là cơ sở cho sự phát triển thương mại và quan hệ kinh tế khu vực, mà từ đó tất cả các nước trong khu vực đều hưởng lợi.
Mối quan tâm của Mỹ về Biển Đông là kết quả của việc Trung Quốc cố gắng kiểm soát lãnh hải và các nguồn tài nguyên ở Biển Đông. [Chính quyền] Trung Quốc khăng khăng đòi “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với khu vực, nhưng một số nước có tuyên bố chủ quyền khác – như Việt Nam, Brunei, Malaysia và Philippines – cũng có cơ sở pháp lý về phía họ.
Tất cả các nước này đều có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) ở Biển Đông, đó là quyền của họ theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS), nhưng bị Trung Quốc bác bỏ. Để làm rõ vấn đề này, Philippines đã khởi kiện Trung Quốc lên tòa án trọng tài Liên Hợp Quốc, được thành lập theo UNCLOS, để giải quyết vụ kiện.
Vào tháng 7 năm 2016, tòa án trọng tài đã ra phán quyết của mình, trong đó tôn trọng các quyền của các nước ASEAN đối với các vùng EEZ của họ, và lưu ý rằng yêu sách của Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, [chính quyền] Trung Quốc đã phớt lờ tính pháp lý trong vụ kiện này, và chuẩn bị hỗ trợ cho yêu sách của mình bằng sức mạnh quân sự. Nếu Trung Quốc không thừa nhận phán quyết [của tòa trọng tài], thì trật tự khu vực mà Mỹ đã và đang thúc đẩy, sẽ bị phá vỡ.
Trung Quốc đã quân sự hóa quần đảo Trường Sa bằng việc tiến hành các dự án cải tạo, khai hoang ở Biển Đông. Trung Quốc đang nạo vét cát từ đáy đại dương, và mở rộng kích thước của 7 đảo đá san hô ngầm mà họ chiếm đóng.
Họ đã xây dựng 3 đường băng ở đó, trong đó 2 đường băng có chiều dài 3.000 mét và 1 đường băng có chiều dài 2.600 mét. Những đường băng này có thể cho phép các máy bay quân sự hạ cánh, gồm cả các máy bay ném bom và máy bay vận tải lớn. Với sự hiện diện quân sự này, Trung Quốc có khả năng kiểm soát Biển Đông. Và vị thế lớn mạnh của họ ở khu vực này sẽ có các hậu quả địa chính trị đối với Mỹ.
Con đường phía trước
Biển Đông đã trở thành một khu vực quan trọng để Trung Quốc thực hiện chiến lược hải quân, bao gồm phong tỏa Đài Loan, và triển khai sức mạnh tại Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ở đây cũng có một số tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp nhất thế giới .
[Chính quyền] Trung Quốc thường nói rằng họ tôn trọng tự do hàng hải, nhưng liệu họ có đáng tin cậy? Người Nhật nghĩ là không. Trong một cuộc tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản vào năm 2010, Trung Quốc đã ngăn cấm việc cung cấp đất hiếm cho Nhật Bản, một loại vật liệu cần thiết cho ngành công nghiệp điện tử của Nhật Bản.
Trung Quốc có thể ngăn chặn hoạt động thương mại của Nhật Bản, khiến Nhật Bản phải chuyển hướng sang nơi khác với chi phí đáng kể. Thật vậy, việc kiểm soát được Biển Đổng sẽ cho phép Trung Quốc can thiệp vào hoạt động thương mại của Nhật Bản và Hàn Quốc được thực hiện qua khu vực này.
Đối với Mỹ, tương lai của trật tự tại khu vực hiện nay và an ninh của các đồng minh của Mỹ – Nhật Bản và Hàn Quốc – khi đó sẽ bị đe dọa. Để duy trì vị thế địa chính trị của mình ở tây Thái Bình Dương, Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ hệ thống đồng minh trong khu vực, và trấn an các nước trong khu vực vốn quan ngại về những ý đồ của Trung Quốc.
Việc bỏ mặc Biển Đông cho Trung Quốc sẽ làm suy yếu hệ thống liên minh và sự hiện diện của Mỹ ở khu vực tây Thái Bình Dương. Trung Quốc sẽ trở thành thế lực thống trị trong khu vực, và các nước trong khu vực có thể sẽ hướng theo Trung Quốc.
Vào tháng 10 năm 2015, chính quyền của Tổng thống Obama đã phản ứng trước các hành động của Trung Quốc [trên Biển Đông], bằng việc tiến hành các cuộc tuần tra hải quân “tự do hàng hải’ ở Biển Đông, qua đó gửi đi một tín hiệu rõ ràng rằng Mỹ sẽ không ra khỏi khu vực.
Theo tất cả các dấu hiệu đến nay cho thấy, chính quyền của ông Trump có thể sẽ cứng rắn hơn trong việc chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, và sẽ mạnh mẽ hơn trong việc ngăn chặn sự xói mòn vị thế của Mỹ trong khu vực.
Ông Trump đã phá vỡ quy tắc ngoại giao [với Trung Quốc] bằng cách nói chuyện với Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn qua điện thoại. Người ta có thể chờ đợi nhiều hơn nữa về sự quyết đoán mới của Mỹ.
Một triển vọng có thể xảy ra là việc thành lập một phi đội hải quân của Mỹ trên Biển Đông, để duy trì sự hiện diện thường xuyên của Mỹ trong khu vực, qua đó cho Trung Quốc thấy rằng họ không thể thống trị khu vực. Chính quyền Trump cũng có thể tăng cường quan hệ an ninh với Nhật Bản, và cố gắng dàn xếp, tạo ra một liên minh giữa các cường quốc, gom các nước Australia, Ấn Độ và Nhật Bản đứng lên đương đầu với Trung Quốc.
Theo ông Leszek Buszynski, Giảng viên thỉnh giảng, Đại học Quốc gia Australia.
Bài viết được đăng trên The Conversation.
Phạm Duy biên dịch
Xem thêm:
from Đại Kỷ Nguyên http://ift.tt/2j3uyhS
via máy cửa nhôm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét